GIỐNG VỊT BIỂN VÀ KỸ THUẬT NUÔI VỊT BIỂN![]() BBT: Vịt biển 15 hay Vịt Biển Đại Xuyên do Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên (thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia) tạo ra, được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống vật nuôi mới tại Thông tư số 25/2015/TT-BNNPTNT ngày 01/7/2015.
Để giúp bạn đọc tìm hiểu về giống và kỹ thuật nuôi giống vịt này chúng tôi xin giới thiệu bài viết của TS. Phùng Quốc Quảng -chuyên gia chăn nuôi về vấn đề này.
1. Tập tính, một số đặc điểm sinh học và triển vọng phát triển Vịt Biển 15 là giống vịt đầu tiên ở Việt Nam có thể sinh sống, phát triển trong môi trường biển; chúng có thể uống được nước biển, tắm nước biển, tìm con mồi trên biển. Chúng có khả năng tự kiếm mồi, tận dụng các nguồn thức ăn tự nhiên rất tốt. Vịt con mới nở có lông màu vàng nhạt, ở đầu và đuôi có phớt đen. Vịt trưởng thành có khối lượng trung bình 2,8-3,0kg, màu lông cánh sẻ, cổ có khoang trắng, lông cánh mầu xanh đen, mỏ và chân mầu vàng nhạt, có con mầu xám, cổ trung bình. Vịt đực có lông đậm hơn con mái, mập mạp, khỏe mạnh. Khi cân nặng hơn 1 kg là bắt đầu thời kỳ thay lông. Vịt biển 15 là giống kiêm dụng, vừa nuôi để lấy thịt vừa nuôi để lấy trứng. Chất lượng thịt cao. Vịt có khả năng sinh trưởng nhanh, nuôi 2 tháng tuổi có thể đạt khối lượng 2,5 kg. Sau 3 tháng, mỗi con có khối lượng từ 3 kg đến 3,2 kg. Tiêu tốn thức ăn là 2,4 - 2,6 kg/1kg tăng trọng. Khi đạt 20-21 tuần tuổi vịt bắt đầu đẻ (khối lượng khoảng 2,5 – 2,7kg), năng suất trứng cao, từ 240 – 245 quả/mái/năm, khối lượng trứng 80 - 85g/quả. Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng là 3,1–3,3 kg. Vịt biển thuộc loại dễ nuôi, sức sống dồi dào, có khả năng thích nghi rộng, chống chịu bệnh tốt, sống được cả ở vùng nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Đến nay, giống Vịt Biển 15 đã được nuôi thành công tại một loạt tỉnh, thành trong cả nước, như Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Trà Vinh. Vịt cũng đã được đưa ra nuôi ở một số đảo: Thổ Chu, Phú Quốc… Đặc biệt, vịt đã được nuôi thành công, lứa đầu đã đẻ trứng ở 33 địa điểm thuộc quần đảo Trường Sa, góp phần vào việc phát triển kinh tế biển đảo và giải quyết bữa ăn cho bộ đội và đồng bào trên các đảo. Trong điều kiện biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, nhiều tỉnh ở Đồng bằng Sông Cửu Long cũng xác định vịt biển là giống chủ lực trong cơ cấu giống vật nuôi tại khu vực này. 2. Kỹ thuật nuôi Vịt Biển Có thể nuôi Vịt Biển theo các phương thức khác nhau: nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, chăn thả; có thể nuôi nhốt trên khô không cần nước bơi lội, nuôi nhốt trong vườn cây, vườn đồi, nuôi nhốt kết hợp cá - vịt, cá - lúa - vịt, lúa - vịt. Đặc biệt vịt nuôi được ở điều kiện nước lợ, nước mặn các vùng cửa sông, bãi biển, ngoài đảo xa và không cần đầu tư nhiều. 2.1 Chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Trường hợp nuôi nhốt, quy mô nhỏ trong nông hộ, chuồng nuôi phải làm độc lập và xa với nhà ở. Trường hợp nuôi quy mô vừa và lớn cần xây dựng chuồng trại xa khu dân cư, đường giao thông, khu công nghiệp, trường học, bệnh viện. Khu chăn nuôi phải có tường rào bao quanh. Chuồng nuôi nên đặt ở vị trí cao ráo, làm đơn giản bằng lưới, tre, nứa, lá hoặc làm sàn trên ao hồ, trên bè (quây gọn) nhưng phải đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông, không bị mưa hắt, không bị nắng chiếu vào ổ đẻ. Phải bố trí chuồng nuôi phù hợp với từng giai đoạn của vịt: chuồng nuôi vịt con, chuồng nuôi vịt hậu bị, chuồng nuôi vịt sinh sản và với diện tích phù hợp với quy mô chăn nuôi để đảm bảo mật nuôi hợp lý vì nếu mật độ nuôi cao sẽ làm giảm năng suất và tiểu khí hậu chuồng nuôi xấu. Nhưng nếu mật độ nuôi thấp sẽ không kinh tế khi sử dụng chuồng nuôi. Mật độ nuôi trung bình như sau:
2.2 Chọn giống Trong chăn nuôi vịt có 3 giai đoạn chọn:
2.3 Thức ăn: Các nguyên liệu thức ăn dùng cho vịt bao gồm: gạo, thóc, ngô, đỗ tương, tấm, cám, cá tép, cua, ốc, don, dắt… bã bia, bã rượu, khoai, rau bèo… Các loại nguyên liệu này đảm bảo không bị mốc và ôi chua. Cần thường xuyên kiểm tra chất lượng thức ăn trước khi cho vịt ăn. Đối với vịt nuôi giống, phải thực hiện chế độ ăn theo định lượng như bảng dưới đây để khống chế khối lượng cơ thể và đảm bảo vịt sinh sản tốt:
(Có thể tập dần cho vịt ăn thóc luộc từ tuần tuổi thứ 3)
Tin mới hơn
Tin cũ hơn
|
|
Bạn đánh giá như thế nào về hoạt động của Hội Làm vườn Việt Nam |
Hoạt động có hiệu quả |
Hoạt động không hiệu quả |
Không có ý kiến |